Friday, November 1, 2013

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ cuối

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ cuối:
Những cú nhảy vọt

CEO kiêm chủ tịch Google, ông Eric Schmidt, nói rằng Mỹ là điểm đến số một cho các doanh nghiệp, nhưng “sau Mỹ, Israel là nơi tốt nhất”. CEO của Microsoft Steve Ballmer đã gọi Microsoft là một “doanh nghiệp Israel”, vì số lượng và vai trò trung tâm của đội ngũ nhân viên người Israel trong công ty này.

Sa mạc dần bị đẩy lùi

Tỉ phú Mỹ Warren Buffett đã tự phá vỡ nguyên tắc trong nhiều thập niên là không bao giờ mua các công ty nước ngoài - bằng việc thâu tóm ISCAR Metalworking, một doanh nghiệp Israel với giá 4,5 tỉ đôla, ngay trước thời điểm xảy ra cuộc chiến giữa Israel và Libăng năm 2006. Thật khó để các doanh nghiệp công nghệ không để mắt đến Israel. Gần một nửa các công ty công nghệ hàng đầu thế giới đã mua lại các doanh nghiệp mới thành lập của Israel, hoặc mở các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) tại đây. Chỉ riêng Hãng Cisco đã mua lại chín doanh nghiệp của Israel và vẫn đang tiếp tục công cuộc tìm kiếm.

Câu chuyện về phương thức giúp Israel đạt được thành tựu như hiện nay - tăng trưởng kinh tế 50 lần trong vòng 60 năm - không chỉ xoay quanh nét lập dị trong văn hóa của người Israel, bản lĩnh kinh doanh được tôi luyện trên chiến trường hay yếu tố ngẫu nhiên mang tính địa chính trị. Lịch sử nền kinh tế Israel là một hành trình gồm hai bước tiến vĩ đại, bị chia cắt bằng một giai đoạn kinh tế đình trệ và lạm phát tăng cao. Những chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của đất nước rồi đảo ngược và giải phóng nó theo những cách mà ngay cả chính phủ cũng không mong đợi.

Bước tiến vĩ đại đầu tiên diễn ra từ năm 1948-1970, giai đoạn thu nhập bình quân đầu người tăng gần gấp bốn lần và dân số Israel tăng gấp ba lần, thậm chí giữa giai đoạn Israel đang tham gia ba cuộc chiến lớn. Lần thứ hai là từ năm 1990 đến nay, giai đoạn Israel chuyển mình từ một vùng ao tù nước đọng trở thành một cường quốc công nghệ. Trung tâm của cú nhảy vĩ đại đầu tiên là một phát kiến xã hội mà quy mô không hề tương xứng với tầm ảnh hưởng địa phương và quốc tế của chính nó: nông trang (kibbutz).

Ngày nay, tuy chiếm chưa đến 2% dân số Israel, song những nông trang sản xuất đến 12% lượng hàng hóa xuất khẩu của cả nước. Được tạo ra như các khu định cư nông nghiệp nhằm xóa bỏ sự tư hữu và đem lại bình đẳng cho toàn dân, phong trào đã phát triển trong suốt 20 năm tiếp theo, lên thành 80.000 người sống trong 250 cộng đồng, song con số này vẫn chỉ chiếm 4% dân số Israel. Tuy nhiên ngày nay các nông trang đã đóng góp 15% thành viên của Knesset - tên gọi Quốc hội Israel - và một con số còn lớn hơn thế cho lực lượng sĩ quan và phi công của quân đội Israel.

Sự trỗi dậy của nông trang một phần là kết quả của những đột phá trong công nghệ và nông nghiệp do các nông trang và trường đại học của Israel thực hiện. Bất lợi của quốc gia khi có một phần lãnh thổ bị sa mạc hóa đã được chuyển hóa thành của cải. Nhìn vào Israel hôm nay, hầu hết du khách sẽ ngạc nhiên khi biết 95% diện tích của đất nước này bị xếp vào nhóm bán khô hạn, khô hạn hoặc rất khô hạn dựa vào lượng mưa hằng năm. Thật vậy, khi mới lập quốc, sa mạc Negev xâm lấn sâu lên phía bắc, giữa Jerusalem và Tel Aviv. Vẫn là vùng đất lớn nhất Israel, nhưng tiến trình xâm thực của sa mạc Negev đã bị đảo lộn khi vùng đất phía bắc của nó đã phủ đầy các cánh rừng và các cánh đồng nông nghiệp do con người trồng. Phần lớn điều này đạt được là nhờ các chính sách thủy lợi sáng tạo từ thời của Hatzerim. Ngày nay Israel dẫn đầu thế giới về tái chế nước thải: hơn 70% lượng nước được tái chế, tỉ lệ gấp ba lần tại Tây Ban Nha, quốc gia đứng vị trí thứ hai.

Nông trang Mashabbe Sade, cũng trong sa mạc Negev, còn đi xa hơn: những thành viên nông trang đã tìm ra cách sử dụng nước tái chế không chỉ một mà những hai lần. Họ đã đào giếng sâu bằng chiều dài mười sân bóng đá và phát hiện nguồn nước vừa ấm vừa mặn. Điều này không có vẻ gì là tuyệt vời, cho đến khi họ tham khảo ý kiến từ giáo sư Samuel Appelbaum của Trường đại học Ben-Gurion tại Negev: ông nhận ra đây là nguồn nước hoàn hảo để nuôi cá nước ấm.

Các nông trang viên bắt đầu bơm nguồn nước nóng 37OC vào trong các bể chứa cá rô phi, cá chẽm và cá vược để sản xuất thương mại. Sau khi được dùng trong bể cá, chỗ nước chứa chất thải của cá giờ lại là nguồn phân bón hoàn hảo cho các rặng cây chà là và ôliu. Các nông trang cũng tìm ra cách trồng rau và cây ăn trái được tưới trực tiếp bằng nguồn nước ngầm.

Một thế kỷ trước, Israel đã được Mark Twain và nhiều du khách khác miêu tả là vùng đất phần lớn cằn cỗi. Giờ đây nơi này có khoảng 240 triệu cây xanh do hàng triệu người cùng trồng. Tháng 12-2008, Đại học Ben-Gurion chủ trì một hội nghị chống sa mạc hóa lớn nhất thế giới do Liên Hiệp Quốc tài trợ. Các chuyên gia đến từ 40 nước háo hức được tận mắt chứng kiến tại sao Israel là quốc gia duy nhất mà sa mạc đang dần bị đẩy lùi.

Con đường tiên phong mới là sáng tạo ra cái mới

Câu chuyện nông trang chỉ là một phần của quỹ đạo chung trong cuộc cách mạng kinh tế Israel. Từ năm 1950 đến hết năm 1955, kinh tế Israel tăng trưởng khoảng 13% mỗi năm. Những năm 1960, mức tăng trưởng hằng năm tiếp tục đạt khoảng 10%. Nền kinh tế Israel không chỉ mở rộng mà còn trải qua điều mà các nhà kinh tế gọi là “cú nhảy vọt”, diễn ra khi một nước đang phát triển thu hẹp khoảng cách thu nhập theo đầu người với những quốc gia giàu có ở thế giới thứ nhất.

Những khoản đầu tư khổng lồ của Israel dành cho các dự án như hệ thống dẫn nước quốc gia Israel, dẫn nước biển Galilee từ phía bắc xuống vùng Negev khô hạn ở phía nam đã giúp kích thích tốc độ tăng trưởng cao. Sự phát triển thần tốc của nhà cửa ở các nông trang đã tạo ra tăng trưởng trong xây dựng và các ngành dịch vụ. Bộ trưởng quốc phòng Shimon Peres và Al Schwimmer, một người Mỹ từng buôn lậu máy bay và vũ khí vào Israel trong suốt cuộc chiến độc lập, đã nuôi giấc mơ tạo dựng ngành công nghiệp hàng không của Israel. Khi họ trình bày ý tưởng với Chính phủ Israel vào những năm 1950, phản ứng họ nhận được đi từ sự hoài nghi đến giễu cợt. Vào thời điểm đó, hàng hóa thiết yếu như sữa và trứng vẫn còn khan hiếm, và hàng ngàn người tị nạn mới đến vẫn phải sống trong lều, nên không có gì ngạc nhiên khi hầu hết các vị bộ trưởng đều nghĩ rằng Israel không đủ khả năng và cũng khó thành công với nỗ lực đó. Nhưng Peres đã thuyết phục được David Ben-Gurion rằng Israel có thể bắt đầu sửa chữa các máy bay còn lại từ Thế chiến II. Họ thành lập một doanh nghiệp lớn nhất ở Israel khi đó là Bedek. Ngày nay Bedek trở thành Israel Aircraft Industries, doanh nghiệp dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực hàng không.

Nhưng điều ấn tượng lớn hơn là quốc gia non trẻ Israel, chỉ mới hơn 60 tuổi, đã chuyển đổi bản thân từ một quốc gia tỉnh lẻ và bị cô lập để trở thành một quốc gia thịnh vượng về mặt công nghệ cao chỉ ba thập kỷ sau.



Các doanh nhân Israel ngày nay cảm nhận được “việc bạn sáng chế ra cái gì đó đã là cách hợp pháp để tạo ra lợi nhuận” như Erel Margalit, một trong những doanh nhân hàng đầu Israel, nói. “Bạn không chỉ mua bán hàng hóa, bạn không chỉ là một người làm về tài chính. Bạn đang làm điều gì đó cho nhân loại. Bạn đang sáng chế một loại thuốc mới hay con chip mới.

Bạn giống như một falah (“nông dân” trong tiếng Ả Rập), một nông dân trong cánh đồng công nghệ cao. Bạn chân lấm tay bùn. Bạn làm cùng với những đồng chí trong đơn vị quân đội. Bạn nói chuyện về một cách sống - không nhất thiết là việc bạn kiếm được bao nhiêu tiền, mặc dù rõ ràng nó là về chuyện đó”. Với Margalit, sự sáng tạo và công nghệ chính là phiên bản thế kỷ 21 của việc vác cày ra đồng. “Con đường tiên phong mới, bài kể chuyện của những người theo chủ nghĩa phục quốc chính là việc tạo ra những thứ mới”, ông nói. Đề tài này có thể truy ngược từ quan điểm sáng lập của Israel. Những người lập nên nhà nước hiện đại này - hay những doanh nhân quốc gia - đã xây dựng một “quốc gia khởi nghiệp” đầu tiên trong lịch sử.



DAN SENOR - SAUL SINGER (TRÍ VƯƠNG dịch)

“Đất đai cằn cỗi, láng giềng thù địch. Hành trình cổ xưa từ Ai Cập đến Israel, dân tộc Do Thái chúng ta đã phải băng qua sa mạc khổng lồ, thì nay, khi quay về, ngôi nhà của chúng ta vẫn là hoang mạc. Chúng ta đã phải xây dựng mọi thứ từ đầu. Như những con người nghèo khó trở về ngôi nhà trên mảnh đất tồi tàn của mình, chúng ta phải khám phá sự giàu có trong khan hiếm. Vốn liếng duy nhất mà chúng ta có thể sử dụng chính là con người”.

SHIMON PERES (nguyên tổng thống Israel)

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ 4

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ 4:
Nhà nước mở cửa

Học sinh Trường trung học Shevach-Mofet đã chờ được một lúc, với sự háo hức thường dành cho các ngôi sao nhạc rock. Hai người Mỹ bước vào qua cửa hậu, bắt tay cánh phóng viên và những nhóm người xung quanh. Đây là chặng dừng chân duy nhất của họ tại Israel, ngoài Văn phòng thủ tướng.

Những người sáng lập Google sải bước vào hội trường và đám đông reo lên. Những học sinh không thể tin vào mắt mình. “Sergey Brin và Larry Page... đang ở trong trường chúng tôi” - một học sinh tự hào nhớ lại. Điều gì đã khiến cặp đôi lừng danh nhất thế giới công nghệ đến ngôi trường Israel này mà không phải nơi nào khác?

Từ choáng ngợp...

Câu trả lời có ngay khi Sergey Brin cất lời. “Thưa các quý ông và quý bà, các chàng trai và cô gái”, anh nói bằng tiếng Nga, sự lựa chọn ngôn ngữ này tạo ra tràng pháo tay không dứt. “Tôi rời Nga khi mới 6 tuổi” - Brin tiếp tục - Tôi đến Mỹ. Giống như các bạn, cha mẹ tôi là người Nga gốc Do Thái điển hình. Cha tôi là giáo sư toán. Họ đều có quan điểm nhất định với việc học. Và tôi nghĩ mình có thể liên hệ với nơi này, vì tôi được kể rằng trường các bạn gần đây đã giành được bảy trong tổng số 10 giải thưởng tại một cuộc thi toán toàn quốc”.

Hầu hết học sinh tại Shevach-Mofet, giống Brin, đều là thế hệ thứ hai của người Nga gốc Do Thái. Shevach-Mofet tọa lạc tại khu vực công nghiệp ở phía nam Tel Aviv, phần nghèo hơn của thành phố, và nhiều năm liền nổi danh là một trong những ngôi trường khó ưa nhất thành phố. Đầu những năm 1990, khi những làn sóng người Nga gốc Do Thái bắt đầu đổ bộ vào Israel sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, ngôi trường trở thành một trong những trường tệ nhất thành phố, chủ yếu được biết đến do nạn phạm tội. Đây cũng là một đặc tính mà những người nhập cư mới đem theo đến Israel.

Tuy nhiên, dân nhập cư lại góp phần tạo ra phép mầu kinh tế Israel. Lúc mới lập quốc năm 1948, dân số Israel là 806.000 người. Ngày nay, con số này là gần 8 triệu người, dân số của đất nước đã tăng gần chín lần trong 60 năm. Dân số đã tăng gấp hai chỉ trong vòng ba năm đầu tiên, khiến chính quyền mới hoàn toàn choáng ngợp. Công dân Israel sinh tại nước ngoài hiện chiếm hơn 1/3 dân số cả nước. Trong số mười người Do Thái Israel thì có chín người là dân nhập cư, hoặc là con cháu thế hệ thứ nhất hay thứ hai của dân nhập cư.

Israel giờ đây là nhà của hơn 70 quốc tịch và nền văn hóa khác nhau. Đây thật sự là một thách thức không nhỏ khi phải nghĩ cách làm gì với dòng người nhập cư tuy rất tài năng, nhưng phải đối mặt với rào cản về ngôn ngữ, văn hóa và cả tệ nạn. Ngày nay, bước chân vào một doanh nghiệp khởi nghiệp hay trong một trung tâm R&D lớn ở Israel, bạn có thể tình cờ nghe nhân viên nói tiếng Nga. Nỗ lực vươn đến sự xuất sắc tràn ngập khắp Shevach-Mofet, và nó cũng phổ biến giữa làn sóng người nhập cư mới nói trên, lan tỏa khắp ngành công nghệ Israel. Ít ai biết là ngay từ đầu có một nhân tố khiến vai trò của làn sóng nhập cư đến Israel trở nên độc đáo: những chính sách của Chính phủ Israel được triển khai để đồng hóa những người mới đến.

Đến cam kết sẽ “mang đến 1 triệu người nhập cư nữa”

Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc và nạn diệt chủng người Do Thái được biết đến nhiều hơn, các nước phương Tây vẫn không sẵn lòng chào đón những người Do Thái sống sót. Với nhiều người Do Thái lúc đó, họ thật sự không còn chốn dung thân theo đúng nghĩa đen. Nhận thức sâu sắc lịch sử này, khi chế độ thuộc địa của Anh ở Palestine hết hiệu lực, vào ngày 14-5-1948, “Bản tuyên ngôn lập quốc của Nhà nước Israel” đã được Hội đồng nhân dân Do Thái ban hành. Trong đó nêu rõ: “Thảm họa gần đây ập lên số phận người Do Thái - vụ thảm sát hàng triệu người Do Thái ở châu Âu - là một minh chứng rõ ràng về sự cấp bách trong việc giải quyết tình trạng vong quốc của chúng ta. Nhà nước Israel sẽ mở cửa cho người nhập cư Do Thái”.

Israel trở thành quốc gia duy nhất trong lịch sử dứt khoát nêu trong văn kiện lập quốc sự cần thiết của một chính sách nhập cư tự do. Năm 1950, chính phủ mới của Israel củng cố bản tuyên ngôn bằng Luật hồi quốc, đến tận ngày nay vẫn đảm bảo “mọi người Do Thái đều có quyền đến với đất nước này” mà không có hạn ngạch số lượng. Luật này cũng định nghĩa một người Do Thái là “một người sinh ra từ mẹ là người Do Thái, hoặc đã cải đạo sang đạo Do Thái”. Quyền công dân Israel cũng được cấp cho cả vợ hoặc chồng không phải người Do Thái, cho trẻ em không phải người Do Thái và cháu của người Do Thái cũng như vợ hoặc chồng của họ.

Điều quan trọng nhất là việc Israel có thể là nước duy nhất tìm cách tăng số lượng dân nhập cư, và không chỉ cho người thuộc dân tộc thiểu số hoặc kinh tế kém. Công việc chào đón và khuyến khích dân nhập cư chiếm một vị trí trong nội các với một bộ chuyên trách vấn đề này. Không giống Sở Di trú Hoa Kỳ, duy trì một trong những chức năng chính là giữ người nhập cư ở ngoài; Bộ Tiếp nhận và nhập cư Israel chỉ tập trung vào việc mang người nhập cư về nước. Nếu người Israel nghe thấy trên đài phát thanh rằng lượng người nhập cư trong năm giảm, đây được xem là tin xấu, giống như việc năm đó thiếu lượng mưa cần thiết. Trong suốt mùa bầu cử, các ứng viên cho chức thủ tướng từ nhiều đảng phái khác nhau đều thường xuyên cam kết sẽ “mang đến 1 triệu người nhập cư nữa” trong nhiệm kỳ của họ.

Trong bối cảnh đó, chính quyền Israel đã xem việc giúp người nhập cư hòa nhập vào xã hội là mục tiêu chính của Bộ Tiếp nhận và nhập cư Israel. Đào tạo ngôn ngữ là một trong những ưu tiên khẩn cấp và toàn diện của chính phủ này. Ngày nay, cơ quan này vẫn tổ chức những khóa học tiếng Hebrew miễn phí cho dân nhập cư: năm giờ mỗi ngày, trong ít nhất sáu tháng. Chính quyền thậm chí còn cung cấp một khoản trợ cấp cho phí sinh hoạt trong thời gian học tiếng, để người nhập cư có thể tập trung vào việc học ngôn ngữ mới thay vì bị phân tâm chỉ học cho xong. Để công nhận nền giáo dục nước ngoài, Bộ Giáo dục Israel duy trì Phòng đánh giá bằng cấp nước ngoài. Chính quyền cũng tiến hành những khóa học để giúp người nhập cư chuẩn bị cho các kỳ thi chứng chỉ nghề nghiệp. Còn Trung tâm Tiếp nhận khoa học có nhiệm vụ phối hợp các nhà khoa học mới đến với những người lao động Israel, Bộ Tiếp nhận điều hành các trung tâm khởi nghiệp, hỗ trợ vốn để lập công ty khởi nghiệp.

Trong lúc nhiều nước liên tục than vãn về việc bị nước ngoài thu hút các tinh hoa doanh nhân và học giả, những người Israel cho rằng “chảy máu chất xám” không hẳn là đường một chiều. Đúng hơn, giới nghiên cứu môn di cư quốc tế ngày càng nhận ra một hiện tượng họ gọi là “lưu chuyển chất xám”, theo đó người tài sẽ ra đi và định cư ở nước ngoài rồi lại quay về cố hương, chứ không hoàn toàn “bỏ rơi” một trong hai nơi này. Một nghiên cứu được Ngân hàng Thế giới công bố: “Trung Quốc, Ấn Độ và Israel được hưởng nguồn đầu tư hoặc bùng nổ công nghệ trong hơn một thập kỷ qua, và những đợt bùng nổ này được liên kết với nhau bởi sự lãnh đạo từ cộng đồng những người làm việc ở hải ngoại của cả ba nước này”.

Với Israel, trong quá khứ đa số nhà đầu tư Mỹ gốc Do Thái thường không quan tâm đến nền kinh tế Israel. Phải rất lâu sau khi Israel đã thành công hơn, nhiều người Do Thái hải ngoại mới bắt đầu nhìn Israel như một điểm đến để kinh doanh, thay vì là nơi chỉ để làm từ thiện hay biểu lộ lòng từ tâm. Vậy nên Israel cần phải sáng tạo trong việc sử dụng cộng đồng Do Thái hải ngoại để thúc đẩy kinh tế. Truyền thống của Israel trong việc nhờ cậy cộng đồng Do Thái hải ngoại - vốn nhỏ nhưng tâm huyết - để xây dựng đất nước bắt nguồn từ chính những định chế của nó, chẳng hạn như không quân Israel.

Gidi Grinstein từng là cố vấn cho cựu thủ tướng Ehud Barak và là thành viên của nhóm đàm phán Israel tại hội nghị Trại David năm 2000 với Tổng thống Mỹ Bill Clinton và nhà lãnh đạo Palestine Yasser Arafat. Ông đã tách ra và thành lập trung tâm ý tưởng Reut Institute của riêng mình, tập trung vào việc làm thế nào để Israel có thể trở thành một trong số 15 nước giàu nhất thế giới vào năm 2020. Ông nêu luận điểm: “Một hoặc hai thế hệ trước đây, ai đó trong gia đình chúng tôi đã gói ghém đồ đạc rất nhanh và bỏ đi. Người nhập cư không ngại làm lại từ đầu. Theo định nghĩa, họ là những người dám mạo hiểm. Một quốc gia của người nhập cư là một quốc gia của tay chơi khởi nghiệp”.

DAN SENOR - SAUL SINGER
(TRÍ VƯƠNG dịch)