Thursday, October 31, 2013

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ 3

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ 3:

Trong khi học sinh trung học nước khác bận rộn với việc chọn trường đại học nào thì học sinh Israel lại cân nhắc những giá trị khác nhau của các đơn vị quân đội. Cũng như học sinh ở những nơi khác đang nghĩ cần phải làm gì để thi vào trường tốt nhất, nhiều học sinh Israel lại đang định hướng bản thân để được tuyển dụng vào các đơn vị của quân đội Israel.

Bạn đã ở đơn vị nào trong quân đội?


Từ năm 1950, Israel đã có Luật hồi quốc, đảm bảo “mọi người Do Thái đều có quyền đến với đất nước này”. Israel cũng đảm bảo không để “chảy máu chất xám”, vì người ra đi rồi cũng sẽ hồi hương.

Áp lực thi tuyển vào những đơn vị này thật sự tăng lên khi các thiếu niên Israel tròn 17 tuổi. Mỗi năm, những lời xì xào bàn tán giữa học sinh trung học và học sinh cuối cấp lan khắp Israel. Ai được yêu cầu thử sức trong khóa huấn luyện phi công? Ai sẽ vào “sayarot”, đơn vị biệt kích của hải quân, lính dù, lữ đoàn bộ binh, và khắt khe nhất là Sayeret Matkal, đơn vị lính biệt kích trực thuộc tham mưu trưởng quân đội? Học sinh nào sẽ được yêu cầu thử sức trong những đơn vị tình báo tinh hoa như 8200, nơi Shvat Shaked và người đồng sáng lập của Fraud Sciences từng phục vụ? Và ai sẽ được chọn vào Talpiot, đơn vị kết hợp huấn luyện công nghệ với tất cả hoạt động của những đơn vị biệt kích hàng đầu?

Ở Israel, một năm trước khi đủ tuổi nghĩa vụ quân sự, mọi thanh niên nam nữ 17 tuổi đều phải đến trình diện tại các trung tâm tuyển quân của quân đội Israel để trải qua đợt sơ tuyển kéo dài một ngày. Cứ đến 18 tuổi, người Israel vào quân đội tối thiểu từ hai đến ba năm. Nếu sau đó không tiếp tục tại ngũ, họ thường vào đại học. “Tỉ lệ người Israel vào đại học sau khi giải ngũ là rất lớn nếu so với bất kỳ đâu trên thế giới”, Gary Shainberg - phó chủ tịch phụ trách lĩnh vực sáng tạo và công nghệ của Hãng British Telecom - nói. Theo số liệu của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), 45% người Israel có trình độ đại học, thuộc nhóm cao nhất thế giới. Và theo niên giám cạnh tranh toàn cầu mới đây của Viện Quản lý phát triển quốc tế (IMD), Israel xếp thứ hai trong số 60 quốc gia phát triển theo tiêu chí “có nền giáo dục đại học đáp ứng nhu cầu của một nền kinh tế cạnh tranh”.

Khoảng 30 quốc gia có chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc kéo dài hơn 18 tháng. Trong nhóm các nước phát triển chỉ có ba nước yêu cầu thời gian phục vụ trong quân đội dài hạn là Israel, Hàn Quốc và Singapore. Không có gì ngạc nhiên vì ba nước này đều đối mặt với sự đe dọa thường trực hoặc từng trải qua những cuộc chiến sinh tử gần đây. Trong khi rất khó lọt vào các trường đại học hàng đầu của Israel thì những cơ sở đào tạo quốc gia được xem là ngang hàng với Harvard, Princeton và Yale chính là các đơn vị tinh nhuệ của quân đội Israel. Các đơn vị mà những ứng viên này từng phục vụ có thể cho nhà tuyển dụng tương lai biết người đó đã trải qua những quy trình tuyển chọn nào, cũng như những kỹ năng và kinh nghiệm liên quan mà họ đã có. “Ở Israel, quá khứ quân ngũ của một người đôi khi còn quan trọng hơn quá khứ học hành của họ. Một trong những câu hỏi thường xuất hiện trong buổi phỏng vấn là: Bạn đã phục vụ ở đơn vị nào trong quân đội?”, Gil Kerbs nói. Ông là cựu sĩ quan tình báo, hiện đang làm việc trong ngành đầu tư mạo hiểm của Israel và chuyên về thị trường công nghệ của Trung Quốc. “Trên Internet có những quảng cáo tuyển dụng đề rõ: Chỉ nhận cựu sĩ quan 8200”, ông nói.

Gary Shainberg lý giải: “Tất cả điều này làm thay đổi năng lực và tinh thần của mỗi cá nhân. Họ trưởng thành hơn rất nhiều, trải nghiệm sống hơn. Tất cả sức sáng tạo chỉ để tìm ra ý tưởng quan điểm mới mẻ. Lên bậc đại học, đầu óc họ đã ở một vị trí rất khác so với người Mỹ cùng tuổi”.

Thế hệ Talpion

Trong quân đội Israel có một đơn vị với sự lựa chọn cực kỳ nghiêm ngặt và huấn luyện hà khắc ở mức cao hơn, đặc biệt trong lĩnh vực cải tiến công nghệ là Talpiot. Talpiot vừa là đơn vị có cơ chế tuyển chọn khắt khe nhất vừa có thời gian huấn luyện kéo dài nhất: 41 tháng, lâu hơn cả toàn bộ thời gian nghĩa vụ của hầu hết binh lính. Những ai tham gia chương trình này còn phải ký cam kết ở lại quân đội thêm sáu năm, nâng thời gian phục vụ tối thiểu trong quân đội của họ thành chín năm. Chương trình này là sản phẩm trí tuệ của hai nhà khoa học thuộc Đại học Hebrew là Felix Dothan và Shaul Yatziv, họ nảy ra ý tưởng này sau thất bại của Israel trước Ai Cập và Syria trong cuộc chiến năm 1973. Cuộc chiến là lời cảnh báo đắt giá rằng Israel phải bù đắp cho diện tích nhỏ và dân số ít ỏi của mình bằng cách duy trì thế mạnh về công nghệ và chất lượng. Hai giáo sư tìm đến bộ trưởng quốc phòng Israel khi đó là Rafael “Raful” Eitan với ý tưởng đơn giản: chọn ra một nhóm nhỏ những tài năng trẻ xuất chúng nhất của Israel và đào tạo để họ nắm bắt được những công nghệ chuyên sâu nhất mà các trường đại học và quân đội có thể nghĩ ra.

Ban đầu chỉ là một thử nghiệm kéo dài một năm, hiện nay chương trình này đã thực hiện liên tục trong 30 năm. Mỗi năm 2% học sinh phổ thông xuất sắc nhất của Israel - khoảng 2.000 người - được yêu cầu tham gia. Và cứ 10 người thì chỉ có một người vượt qua được hàng loạt bài sát hạch, chủ yếu về vật lý và toán học. 200 ứng viên này sau đó phải trải qua một cuộc kiểm tra kéo dài hai ngày về năng khiếu chuyên sâu và nhân cách. Một khi được gia nhập chương trình, học viên Talpiot phải trải qua kỳ thi lấy văn bằng đại học cấp tốc cho các môn toán học hoặc vật lý, cùng lúc làm quen với những nhu cầu công nghệ tại mọi chi nhánh thuộc quân đội Israel. Chương trình học thuật họ được đào tạo vượt xa kiến thức của một sinh viên đại học bình thường ở Israel hay bất kỳ đâu - họ phải học nhiều hơn trong thời gian ngắn hơn.

Tuy nhiên, cung cấp một lượng lớn các loại kiến thức cho học viên lại không phải mục tiêu cuối cùng của chương trình. Mục tiêu xa hơn là biến họ thành những nhà lãnh đạo có định hướng nhiệm vụ và có khả năng giải quyết các vấn đề. Nếu nhóm học viên vượt qua được hai hoặc ba năm đầu của khóa học, họ sẽ trở thành những “Talpion”, một danh phận có uy tín cả trong quân sự lẫn dân sự. Mặc dù chỉ có 650 người tốt nghiệp chương trình trong 30 năm qua, họ đã trở thành những học giả và người sáng lập các doanh nghiệp thành đạt hàng đầu của Israel. Nhiều công ty công nghệ của Israel có mặt trên NASDAQ đều do các Talpion thành lập hoặc có cựu sĩ quan Talpion nắm giữ những vị trí chủ chốt.

Dothan và Yatziv đã khẳng định các Talpion dễ dàng hoàn vốn đầu tư trong sáu năm phục vụ bắt buộc; 2/3 sĩ quan Talpiot tốt nghiệp dù làm trong giới học thuật hay các tập đoàn công nghệ cũng tiếp tục có những đóng góp to lớn cho xã hội và cho nền kinh tế, giúp củng số sức mạnh của đất nước theo nhiều cách khác nhau. Những Talpion có thể đại diện cho tầng lớp tinh hoa của tinh hoa trong quân đội Israel, nhưng chiến lược cơ bản đằng sau sự phát triển của chương trình là bằng chứng rõ ràng trong giới quân sự, cũng như một phần trong tập quán người Israel: đào tạo người lao động thành thạo nhiều chuyên môn, hơn là cực kỳ xuất sắc chỉ trong một lĩnh vực. Không phải ngẫu nhiên mà quân đội - đặc biệt là các đơn vị tinh nhuệ thuộc không quân, bộ binh, tình báo và công nghệ thông tin - đã đóng vai trò là lồng ươm cho hàng ngàn doanh nhân khởi nghiệp công nghệ cao của Israel.

Từ khi lập quốc, người Israel luôn cho rằng tương lai - dù gần hay xa - đều là dấu hỏi. Mỗi khoảnh khắc đều có tầm quan trọng chiến lược. Như Mark Gerson, một doanh nhân người Mỹ từng đầu tư vào vài doanh nghiệp mới thành lập của Israel, miêu tả: “Khi đàn ông Israel muốn hẹn hò với một phụ nữ, anh ta sẽ ngỏ lời với cô ấy ngay trong buổi tối hôm đó. Khi doanh nhân Israel có một ý tưởng, anh ta sẽ thực hiện nó ngay trong tuần. Quan điểm cho rằng nên tích lũy năng lực kinh nghiệm trước khi mở một doanh nghiệp hoàn toàn không tồn tại. Điều này lại rất tốt trong kinh doanh. Quá nhiều thời gian chỉ cho bạn thấy điều gì sẽ thất bại, chứ không phải thứ sẽ tạo ra sự thay đổi”.

DAN SENOR - SAUL SINGER
(TRÍ VƯƠNG dịch)

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ 2

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ 2

Tinh thần chutzpah חוצפה

Scott Thompson chủ tịch cựu giám đốc công nghệ của PayPal


Scott Thompson là chủ tịch kiêm cựu giám đốc công nghệ của PayPal, hệ thống thanh toán trực tuyến qua Internet lớn nhất thế giới. Ông đã hứa dành cho một chàng trai trẻ Shvat Shaked 20 phút để nghe anh trình bày giải pháp đối phó với nạn lừa đảo thanh toán trực tuyến, gian lận thẻ tín dụng và đánh cắp các thông tin điện tử khác.

Thompson không thể từ chối buổi gặp này vì đó là điều Benchmark Capital đã yêu cầu. Benchmark đã đầu tư khá nhiều vào eBay (có giá trị 18 tỉ USD cùng đội ngũ 16.000 nhân viên khắp thế giới), công ty mẹ của PayPal. Benchmark dự định đầu tư vào Công ty Fraud Sciences của Shaked, đặt tại Israel. Benchmark đã nhờ Thompson kiểm tra Shaked.

Chàng trai gây choáng PayPal

“Cậu có ý tưởng gì, Shvat?” - Thompson hỏi trong khi rất muốn kết thúc cuộc gặp càng sớm càng tốt. Shaked bắt đầu lặng lẽ: “Chúng tôi tin rằng thế giới chỉ có hai loại người: tốt và xấu. Và bí quyết đánh bại nạn lừa đảo qua mạng là sàng lọc hai loại người này ngay trên Internet”. Phải cố lắm Thompson mới không biểu lộ sự thất vọng. “Thế cậu định làm cách nào?”. “Người tốt thì hay để lộ dấu vết trên mạng, đây gọi là dấu chân điện tử, vì họ không có gì để che giấu cả - Shvat tiếp tục bằng giọng đậm chất Anh - Còn kẻ xấu thì không, vì chúng sẽ tìm cách ẩn mình. Tất cả những gì chúng ta cần làm là tìm ra các dấu chân. Việc này thật sự rất đơn giản”. Thompson hỏi: “Cậu học được điều này ở đâu?”. “Nhờ kinh nghiệm truy lùng khủng bố”, Shvat trả lời.

Số lượng các công ty Israel có tên trên sàn chứng khoán NASDAQ của Mỹ nhiều hơn tất cả các công ty của châu Âu cộng lại. Israel là quốc gia có mật độ các doanh nghiệp mới thành lập nhiều nhất thế giới, cứ 1.844 người Israel lại có một doanh nghiệp.

Năm 2008, vốn đầu tư bình quân đầu người ở Israel nhiều gấp 2,5 lần Mỹ, 30 lần so với châu Âu, 80 lần so với Trung Quốc và 350 lần so với Ấn Độ. Xét trên số liệu cụ thể, Israel - với dân số gần 8 triệu người - thu hút các nguồn đầu tư tương đương với số vốn do 61 triệu dân Anh, và 145 triệu dân Pháp và Đức cộng lại thu hút được.

Đơn vị của cậu được giao nhiệm vụ hỗ trợ truy bắt khủng bố bằng cách theo dõi các hoạt động trực tuyến của chúng. Bọn khủng bố sử dụng thông tin cá nhân giả để thực hiện các phi vụ chuyển tiền bất hợp pháp. Nhiệm vụ của Shvat là tìm kiếm những thông tin này trên mạng. “Được rồi, chúng ta hãy làm thế này nhé”, Thompson nói và ông giao cho Shvat 100.000 giao dịch đã được PayPal phân tích trước đó. Đây là những giao dịch khách hàng mà PayPal đã xử lý và họ phải loại bỏ một số dữ liệu để bảo mật thông tin khách hàng, nghĩa là công việc của Shvat sẽ còn khó khăn hơn. “Để xem cậu làm được gì - Thompson đề nghị - và trả kết quả cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ đối chiếu kết quả của cậu với kết quả của công ty”. Thompson bàn giao dữ liệu cho Shvat vào thứ năm.

“Tôi tưởng rằng mình sẽ không gặp lại Shvat nữa, ít nhất là trong nhiều tháng”, Thompson nhớ lại, nên ông vô cùng ngạc nhiên khi nhận được email từ Israel vào chủ nhật, trong đó viết “Chúng tôi xong rồi”. Thompson không tin điều đó, việc đầu tiên ông làm vào sáng sớm ngày thứ hai là chuyển toàn bộ công trình của Shvat cho đội kỹ sư có bằng tiến sĩ để kiểm nghiệm, và phải mất đến một tuần để đối chiếu kết quả của Shvat với PayPal. Đến thứ tư, đội kỹ sư của Thompson đã rất kinh ngạc với những gì họ thấy: nhóm của Shvat cho ra kết quả chính xác hơn nhiều so với những gì PayPal đã làm được. “Tôi chỉ biết ngồi đó và sững người vì kinh ngạc - Thompson hồi tưởng - Chúng tôi là doanh nghiệp giỏi nhất trong lĩnh vực quản lý rủi ro nhưng lại bị một đội ngũ chỉ với 55 nhân viên người Israel đánh bại với lý thuyết phân biệt người tốt kẻ xấu”. Ông ước tính vào thời điểm đó, mức độ hiệu quả trong hệ thống của Fraud Sciences đã đi trước PayPal đến năm năm. Chỉ đầu tư vào Fraud Sciences không thôi thì chưa đủ, PayPal cần phải nhanh chóng thâu tóm công ty này ngay lập tức. Sau vài ngày đàm phán, Thompson và Shaked đồng ý con số 169 triệu đôla.

Chúng ta đều biết vào những năm 1970, chỉ những nhà khoa học nghiên cứu tên lửa và các trường đại học lớn mới sử dụng máy tính, vài máy tính lớn đến mức chiếm cả căn phòng, thậm chí cả tòa nhà. Ý tưởng về một chiếc máy tính cá nhân nằm gọn trên bàn làm việc chỉ là thứ sản phẩm của khoa học viễn tưởng. Song mọi thứ bắt đầu thay đổi vào năm 1980 khi nhóm Haifa của Intel thiết kế ra con chip 8088, với các bóng bán dẫn có thể tắt - mở khoảng 5 triệu lần mỗi giây (4,77 MHz), và có kích thước đủ nhỏ để tạo ra máy tính dùng trong văn phòng và nhà riêng. Tập đoàn IBM sau đó đã chọn chip 8088 của Intel làm não bộ cho máy tính cá nhân hay PC đầu tiên của hãng này, mở ra một kỷ nguyên mới cho máy tính. Từ đó trở đi, công nghệ điện toán ngày càng thu nhỏ về kích thước và nhanh hơn về tốc độ xử lý. Vào năm 1986, nhà máy sản xuất duy nhất tại nước ngoài của Intel ở Jerusalem đã cho ra đời chip 386, đạt tốc độ 33 MHz. Dù chỉ là một phần nhỏ so với tốc độ của bộ chip ngày nay, song tại thời điểm đó Intel đã gọi đây là một con chip “siêu nhanh”, gấp bảy lần chip 8088.

Sự cả gan

Những gì Scott Thompson trải nghiệm chính là liều thuốc đầu tiên của người Israel về tinh thần chutzpah חוצפה. Theo bản mô tả của học giả người Do Thái Leo Rosten bằng tiếng Yiddish, thứ ngôn ngữ Slavơ của người Đức đã thất truyền từ lâu, chutzpah - חוצפה có nghĩa là “táo bạo, gai góc, trắng trợn, thần kinh, vô liêm sỉ mà không ngôn từ nào có thể miêu tả chính xác”.

Người nước ngoài sẽ chứng kiến sự cả gan này ở bất kỳ đâu trên đất Israel: trong cách các sinh viên đại học nói chuyện với giảng viên, nhân viên thách thức ông chủ, binh lính chất vấn sĩ quan chỉ huy và thư ký sửa lưng các bộ trưởng chính phủ. Ai mới đến Israel sẽ thấy người bản xứ thật thô lỗ. Người Israel sẽ không ngại ngần hỏi bạn bao nhiêu tuổi hay khoe căn nhà họ ở và xe họ đi giá bao nhiêu tiền. Tuy nhiên, đối với người Israel, đây không phải là sự cả gan mà là điều hết sức bình thường. Người Israel học được rằng sự trầm lặng sẽ có nguy cơ bị tụt hậu, dù là ở nhà riêng, trên giảng đường hay trong quân đội.

Điều này đặc biệt rõ trong cách người Israel gọi tên nhau. Jon Medved, một nhà đầu tư mạo hiểm và là doanh nhân người Israel, nói: “Bạn có thể hiểu được nhiều về bản chất một xã hội thông qua cách người dân gọi tên giới lãnh đạo của họ. Israel là nước duy nhất trên thế giới mà mọi nhân vật nắm quyền - bao gồm cả thủ tướng và các tướng lĩnh trong quân đội - đều được mọi người, kể cả dân chúng, gọi bằng biệt hiệu”. Cụ thể, biệt danh của Thủ tướng Benjamin Netanyahu và Ariel Sharon lần lượt là “Bibi” và “Arik”. Vị tham mưu trưởng trong quân đội Israel gần đây là Moshe Levi sở hữu biệt danh “Moshe VeHetzi”, nghĩa là Moshe-và-một-nửa, do ông này cao đến 1,98m.

Thái độ và sự thân mật của người Israel còn được bắt nguồn từ nền văn hóa khoan dung mà người Israel gọi là “thất bại có tính xây dựng” hay “thất bại thông minh”. Giới đầu tư Israel tin rằng nếu không thông cảm với hàng loạt những thất bại này thì sẽ khó lòng đạt được sự đổi mới thật sự. Thật vậy, một nghiên cứu vào năm 2006 của Đại học Harvard cho thấy những doanh nhân từng thất bại sẽ có cơ may thành công cao hơn 20% ở lần khởi nghiệp tiếp theo của họ. Đây là tỉ lệ cao hơn so với những người khởi nghiệp lần đầu và không quá thua kém so với những doanh nhân từng đạt được thành công trước đó. Israel được xem là môi trường tốt nhất Trung Đông - và là một trong những nơi tốt nhất thế giới - để mở một công ty mới, kể cả khi doanh nghiệp cũ của bạn bị phá sản. Điều này còn có thể hiểu rằng người Israel luôn không ngừng nỗ lực tìm kiếm cơ hội mới.

Shmuel Eden - người từng phụ trách Intel ở Israel 


Shmuel Eden - người từng phụ trách Intel ở Israel đạt kim ngạch xuất khẩu hằng năm lên tới 1,53 tỉ đôla - đúc rút kinh nghiệm: “Tôi có thể khẳng định điều độc đáo nhất của Israel là nền văn hóa. Người dân Israel không có văn hóa quá kỷ luật. Từ thuở sơ khai, chúng tôi đã được dạy phải luôn nghi ngờ cái có sẵn, phải luôn đặt câu hỏi, tranh luận về mọi vấn đề và phải luôn sáng tạo”. Cuối cùng, ông kết luận: “Quản lý năm nhân viên người Israel luôn khó khăn hơn 50 người Mỹ. Vì người Israel luôn thử thách bạn mọi lúc - bắt đầu bằng những câu hỏi như: Tại sao ông là sếp của tôi, tại sao tôi không phải sếp của ông?”.

DAN SENOR - SAUL SINGER

(TRÍ VƯƠNG dịch)

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ 1

Quốc gia khởi nghiệp - Kỳ 1

Xin trích dẫn đăng quyển sách Quốc gia khởi nghiệp (Nhà Xuất Bản Thế Giới và Công ty Alpha Books).

Tìm kiếm cơ hội

Người Israel thích du lịch không chỉ để nhìn ngắm thế giới, ngọn nguồn của việc này còn sâu xa hơn nhiều. Cho đến gần đây, người Israel không thể du lịch đến những nước láng giềng dù chỉ cách Israel một ngày lái xe. Sự cô lập đã tồn tại từ trước khi có nhà nước Israel. Đến năm 1943, một cuộc tẩy chay chính thức đã diễn ra và kéo dài hơn khi Liên đoàn Ả Rập gồm 22 quốc gia cấm mua bán các sản phẩm của ngành công nghiệp Do Thái trên đất Palestine, năm năm trước khi nhà nước Israel chính thức thành lập. Lệnh cấm còn mở rộng ra những công ty nước ngoài ở bất kỳ quốc gia nào mua bán với Israel. Gần như mọi hãng xe hơi lớn của Nhật Bản và Hàn Quốc đều tuân thủ lệnh tẩy chay, và xe của các nước này không hề xuất hiện trên đường phố Israel.

Trong bối cảnh như vậy, việc giới trẻ Israel vừa tìm cách thoát khỏi thế giới Ả Rập đã tẩy chay họ, vừa muốn bày tỏ sự thách thức đối với chủ nghĩa phân biệt đó là điều tự nhiên. Họ như muốn nói: “Các vị càng cố nhốt chúng tôi bao nhiêu, chúng tôi càng muốn cho các vị thấy mình có thể thoát ra bấy nhiêu”. Cũng vì lý do này, chẳng có gì lạ khi Israel lại tận dụng những đấu trường như viễn thông, máy tính, phần mềm và Internet. Trong những ngành nghề này, các đường biên giới, khoảng cách và chi phí vận chuyển thật sự không còn liên quan đến nhau.

Vì Israel buộc phải xuất khẩu hàng hóa đến những thị trường rất xa, các doanh nghiệp Israel trở nên ác cảm với những mặt hàng to lớn, được sản xuất đại trà và chi phí vận chuyển cao, chỉ hứng thú với phần mềm và các linh kiện nhỏ gọn, vô danh. Ngược lại, chính điều này đã giúp củng cố vị trí hoàn hảo của Israel khi thế giới chuyển sang các nền kinh tế dựa trên tri thức và sự sáng tạo, một xu hướng vẫn tiếp diễn đến ngày nay. Ngày nay, các công ty Israel gắn kết chặt chẽ với nền kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ Latin. Bởi Israel đã sớm ưu tiên phát triển ngành viễn thông, mọi công ty điện thoại lớn của Trung Quốc đều dựa vào phần mềm và thiết bị viễn thông của Israel. Người Israel đang bỏ xa các đối thủ quốc tế của họ trong việc xâm nhập những thị trường như vậy, một phần vì họ phải nhảy cóc khỏi vùng trũng Trung Đông và tìm kiếm các cơ hội mới.

Một ví dụ rõ nét cho tinh thần quốc tế của người Israel là Netafim, doanh nghiệp lớn nhất thế giới cung cấp hệ thống tưới tiêu theo phương pháp nhỏ giọt.

Thành lập năm 1965, Netafim là ví dụ hiếm hoi của một công ty đóng vai cầu nối giữa nền nông nghiệp lạc hậu của Israel trong quá khứ với sự bùng nổ của công nghệ sạch hiện tại.



Netafim do Simcha Blass sáng lập, ông là kiến trúc sư của một trong những dự án cơ sở hạ tầng lớn nhất được xây dựng trong những năm đầu của nhà nước Israel. Ý tưởng về công nghệ tưới nhỏ giọt đến với Blass khi ông quan sát một cái cây đang lớn trên sân nhà hàng xóm mà dường như “không cần nước”. Thật ra, cái cây khổng lồ này đã sống nhờ nguồn nước rò rỉ từ lỗ thủng của một ống nước ngầm.



Netafim đi tiên phong không chỉ vì hệ thống này đã phát triển một cách làm sáng tạo giúp tăng sản lượng cây trồng lên 50% trong khi giảm 40% lượng nước tưới tiêu, mà đó còn là một trong những ngành công nghiệp đầu tiên trên thế giới áp dụng mô hình nông trang. Nhưng lợi thế thật sự của Netafim là việc không ngại di chuyển đến những nơi xa xôi để tìm kiếm các thị trường đang rất cần sản phẩm của họ - những nơi mà vào thập niên 1960 và 1970, giới doanh nghiệp phương Tây không màng viếng thăm. Kết quả là giờ đây Netafim hoạt động ở hơn 110 quốc gia trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhờ tính ưu việt trong công nghệ của Netafim, chính phủ của các quốc gia thù địch trước kia đã mở lại các kênh ngoại giao.

Giới thiệu đất nước thay vì công ty

Nhiều doanh nhân nổi tiếng thế giới của Israel không chỉ truyền bá công nghệ mà còn tìm cách “chào bán” cả nền kinh tế Israel. Jonathan Medved thâm nhập lĩnh vực đầu tư và thành lập Israel Seed Partners, một công ty đầu tư mạo hiểm, ngay trong gara của ông ở Jerusalem. Nguồn quỹ của công ty lên đến 260 triệu đôla và ông đã đầu tư vào 60 doanh nghiệp Israel, trong đó có hai doanh nghiệp được niêm yết trên sàn chứng khoán Nasdaq (Mỹ).

Năm 2006, Medved rời Israel Seed Partners để thành lập và điều hành công ty riêng - Vringo, một đơn vị tiên phong trong lĩnh vực sản xuất nhạc chuông video cho điện thoại di động sau này, đã nhanh chóng thâm nhập thị trường châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng Công ty Vringo chưa phải là điều quan trọng nhất. Medved đã dành rất nhiều thời gian để đi diễn thuyết về nền kinh tế Israel. Trong các bài diễn thuyết và những cuộc trò chuyện với bất kỳ ai chịu lắng nghe, Medved luôn tán dương những cột mốc “đầu tư” mà ở đó các công ty được mua lại hay được niêm yết, và liệt kê ra rất nhiều công nghệ “made in Israel”.



Trong số các công ty khởi nghiệp mà Medved ca ngợi trong bài diễn thuyết của mình, hiếm khi ông nhắc đến những công ty mà ông góp vốn. Ông luôn trăn trở mỗi khi chuẩn bị bài diễn thuyết: “Tôi có nên ca ngợi Vringo trong số những công ty mới đầy hứa hẹn của Israel không? Làm thế mới đúng chứ? Vì đó là sự quảng bá tốt cho công ty”. Rồi ông đã kiềm chế được sự thôi thúc đó. “Ưu tiên của tôi là đất nước Israel. Những nhà đầu tư Mỹ thường tranh cãi với tôi về việc này: “Ông đã nâng đỡ cho các công ty đối thủ thay vì công ty của chính mình”. Họ nói đúng. Nhưng họ đã quên mất vấn đề lớn hơn”.

Medved hoạt động không mệt mỏi. Ông đã diễn thuyết 50 lần mỗi năm suốt 15 năm vừa qua tại các hội thảo công nghệ và trường đại học trên khắp thế giới, ở 40 quốc gia, ghi điểm với các quan chức quốc tế đến thăm Israel. Alex Vieux, CEO của tạp chí Red Herring, nói rằng ông đã có mặt tại “hàng triệu hội thảo về công nghệ ở nhiều châu lục. Lúc nào tôi cũng thấy người Israel như Medved đang diễn thuyết cùng những đồng nghiệp từ các nước khác. Những người khác luôn giới thiệu về công ty của họ, nhưng người Israel luôn giới thiệu đất nước Israel”.

DAN SENOR - SAUL SINGER (Trí Vương dịch)